Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

Khái niệm QUÂN KHU 4


QUÂN KHU 4, tổ chức hành chính QS theo vùng lãnh thổ có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh ở Bắc Trung Bộ. Ngày thành lập 3.6.1957 (theo Sắc lệnh số 017 - SL của Chủ tịch nước, trên cơ sở Liên khu 4). Ngày truyền thống 15.10.1945. Địa bàn Quân khu được tổ chức lần lượt mang các tên gọi: Chiến khu 4 (1945-1946), Khu 4 (1946-1950), Liên khu 4 (1950-1957) gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. 10.9.1957, QK4 gồm khu vực Vĩnh Linh và các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An.

5.1976, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định điều chỉnh QK4 trên cơ sở sáp nhập QK4, Quân khu Trị - Thiên và Thanh Hoá gồm các tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế với diện tích đất liền 56.062 km2 và vùng biển rộng lớn, nơi cư trú của 49 dân tộc anh em. phía Bắc giáp Quân khu 2 và Quân khu 3, phía Nam giáp Quân khu 5, phía Tây giáp Lào (đường biên giới dài 1162 km), phía Đông là Biển Đông (bờ biển dài 662 km). KCCP, Bình-Trị-Thiên là chiến trường giành giật quyết liệt giữa ta và địch, Thanh-Nghệ Tĩnh là vùng tự do, hậu phương trực tiếp của MT Bình-Trị-Thiên và chiến trường chính Bắc Bộ. Đồng thời, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường Bắc Bộ và Trung, Hạ Lào, góp phần vào thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. KCCM, cứu nước, QK4 vừa là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, đặc biệt là Trị-Thiên và chiến trường Lào, là cửa khẩu của tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn; vừa là tuyến đầu của cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc và phát huy vai trò của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, góp phần vào thắng lợi oanh liệt của cuộc kháng chiến, đánh bại 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân và các LLVT Quân khu tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, ra sức xây dựng, phát triển tiềm lực kinh tế, quốc phòng, xây dựng LLVT nhân dân Quân khu theo hướng chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại, đồng thời tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng đất nước, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên: Nguyễn Đôn, Chu Huy Mân. Phần thưởng: Huân chương Sao Vàng, 2 Huân chương Hồ Chí Minh, 1 Huân chương Quân công hạng Nhất, 518 đơn vị và 174 cá nhân được tuyên dương AHLLVTND cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.
Nguồn: Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Từ điển Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.520-521.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!