KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỦA VIỆT NAM (1954 - 1975),
kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng miền
Nam; bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trên cả nước.
Cuộc kháng chiến diễn ra trong những
điều kiện mới, vừa thuận lợi nhưng cũng rất phức tạp. Miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, có chính quyền vững mạnh, có lực lượng vũ trang anh dũng, có mặt trận
đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân. Nhân dân miền Nam giác ngộ chính trị
cao, vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp kháng
chiến của nhân dân cả nước được Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo; được đông đảo
nhân dân tiến bộ và nhiều quốc gia trên thế giới đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ.
Bên cạnh những thuận lợi, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam cũng gặp
nhiều khó khăn. Đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã
hội đối lập. Miền Bắc kinh tế nghèo nàn, kỹ thuật sản xuất lạc hậu. Ở miền Nam,
từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, giờ đây, phần lớn cán
bộ, đảng viên, chiến sĩ tập kết ra miền Bắc, cách mạng miền Nam phải chuyên
sang phương thức hoạt động vừa hợp pháp vừa không hợp pháp; vừa công khai vừa bí
mật. Trên thế giới, phong trào cách mạng đang ở thế tiến công; tuy nhiên, trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như nội bộ các nước xã hội chủ
nghĩa, nảy sinh bất đồng về đường lối, quan điểm và những bất đồng đó chẳng
những không được khắc phục mà ngày càng sâu sắc; đặc biệt giữa Liên Xô và Trung
Quốc. Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ tiếp tục hướng nỗ lực vào việc chống phá
chủ nghĩa cộng sản trên khắp các châu lục. Chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm bao
vây, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa khác, đến năm 1955, đạt tới đỉnh cao với việc ra đời nhiều khối quân sự
do Mỹ cầm đầu. Những nỗ lực trên đây của Mỹ và đồng minh khiến cho tình hình
thế giới diễn biến ngày càng thêm căng thẳng, chiến tranh lạnh tiếp diễn ngày
càng gay gắt, tuy vẫn có hoà hoãn bộ phận. Thế giới hình thành hai hai hệ thống
xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa vừa chống đối nhau quyết liệt nhưng đồng
thời vẫn phải hợp tác với nhau trong chừng mực có thể để giải quyết các vấn đề quốc
tế và khu vực có liên quan. Toàn bộ tình hình trên đây tác động tới sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Việt Nam có vị trí địa - chiến lược rất quan
trọng ở khu vực Đông Nam Á, được các nhà chiến lược Mỹ đánh giá là một tiền
tiêu quan trọng trên tuyến bao vây ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản. Sau khi thực
dân Pháp bại trận buộc phải kí Hiệp định Giơ-ne-vơ thì Tổng thống Mỹ tuyên bố
Mỹ không bị ràng buộc bởi Hiệp định này. Ngay sau đó, Mỹ tìm cách hất cẳng
Pháp, độc chiếm miền Nam, gây nên cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới kéo
dài và rất tàn khốc. Chọn Việt Nam là nơi thí nghiệm chiến lược toàn cầu phản
cách mạng, âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là đè bẹp cách mạng Việt Nam, chia cắt
lâu dài đất nước Việt Nam, ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương
và Đông Nam Á, qua đó, bao vây, uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa và răn đe
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới cũng như rút kinh nghiệm để tiến
tới dập tắt phong trào này. 6 đời tổng thống Mỹ kế tiếp nhau đã theo đuổi âm mưu
cơ bản trên đây bằng các chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới.
Chiến tranh xâm lược Việt Nam, vì vậy, là một bộ phận quan trọng trong chiến
lược toàn cầu phản cách mạng đầy tham vọng của đế quốc Mỹ. Việt Nam trở thành
nơi tập trung mâu thuẫn cơ bản của thế giới, chiến tranh Việt Nam trở thành
cuộc đụng đầu lịch sử giữa hai lực lượng cách mạng và phản cách mạng. Sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, do đó, mang tính chất thời đại sâu
sắc.
Giai
đoạn 1 (tháng 7.1954 - 12.1960): khôi phục toàn diện miền Bắc Việt Nam, đấu
tranh chính trị ở miền Nam Việt Nam, đồng khởi làm thất bại một hình thức thống
trị điển hình bằng chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Sau hơn 80 năm thống trị của thực dân Pháp và 15 năm tàn phá của chiến tranh,
hoà bình lập lại, miền Bắc đứng trước một loạt khó khăn gay gắt trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng. Những vấn
đề này càng trở nên nóng bỏng do âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch, đặc biệt là Mỹ - Diệm. Bên cạnh khó khăn, miền Bắc hoàn toàn giải
phóng là một thắng lợi to lớn, một điều kiện thuận lợi rất cơ bản cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân Việt Nam trong thời kì mới. Phát huy khí thế chiến thắng
và trên nền tảng của những điều kiện thuận lợi này, nhân dân miền Bắc Việt Nam
tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn thành cải cách ruộng đất và sửa
sai, phục hồi kinh tế, phát triển văn hoá, xã hội, cải tạo xã hội chủ nghĩa các
thành phần kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất mới với hai hình thức cơ bản là
quốc doanh và tập thể, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh, đập
tan âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch...
Ở miền Nam, đế quốc Mỹ thực hiện các
biện pháp nhằm đẩy lùi ảnh hưởng của Pháp và đánh bại các thế lực thân Pháp,
xây dựng chính quyền, quân đội Sài Gòn phục vụ cho âm mưu biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới. Với sự ủng hộ của Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn mở
các đợt "tố cộng", "diệt cộng", giết hại, giam cầm hơn nửa
triệu người yêu nước, đàn áp dã man phong trào đấu tranh của nhân dân đòi thi
hành Hiệp định Giơ-ne-vơ và thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước cùng
các quyền dân sinh, dân chủ. (Xem vụ thảm
sát Ngân Sơn - Chí Thạnh, 7.9.1954; vụ
thảm sát Phú Lợi, 1.12.1958).
Cách mạng miền Nam chịu những tổn thất nặng nề và lâm vào tình thế rất hiểm
nghèo.
Từ tháng 8 - 1956, Lê Duẩn, trên
cương vị là Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ, đã từ thực tiễn của tình hình miền Nam, viết Đề cương cách mạng miền Nam, dự kiến mức
độ bạo lực phải được nâng cao nhưng bằng cách nào thì vẫn chưa có được giải
pháp cơ bản cho cách mạng miền Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 15 (đợt 1, 12 - 22.1.1959; đợt 2, 10 - 15.7.1959) do Chủ tịch Hồ Chí Minh
chủ toạ đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam;
nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế
quốc Mỹ; phương pháp cách mạng và phương pháp chiến tranh là dùng bạo lực cách
mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh
vũ trang; xu hướng phát triển của phong trào cách mạng miền Nam là từ khởi
nghĩa của nhân dân có thể tiến lên cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Để chi
viện cho cách mạng miền Nam, tháng 5-1959, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết
định tổ chức Đoàn 559 và tháng 7 - 1959 quyết định tổ chức Đoàn 759. Trước khi
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 ra đời cũng như
trong lúc Nghị quyết chưa được truyền đạt tới, ở nhiều địa phương miền Nam,
quần chúng cách mạng có sự chỉ đạo của Đảng bộ cơ sở đã từng bước khôi phục,
phát triển các đội vũ trang, tổ chức một số cuộc đấu tranh vũ trang hoặc đấu
tranh chính trị có vũ trang kết hợp, diệt ác, phá tề, chống càn, bảo vệ căn cứ.
Đến giữa năm 1959, miền Nam đang trong quá trình xuất hiện khởi nghĩa từng
phần. Nghị quyết 15 đã thổi bùng lên phong trào Đồng khởi, làm tan rã hàng loạt bộ máy kìm kẹp chính quyền địch ở
cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, ấp, thôn, bản, đẩy quân đội và chính
quyền Ngô Đình Diệm lâm vào thế bị động, lúng túng, khủng hoảng trầm trọng (Xem Nổi dậy ở Vĩnh Thạnh, 6.2 - 4.1959; nổi dậy
ở Bác Ái, 7.2 - 4.1959; khởi nghĩa Trà Bồng, 8.1959; đồng khởi Bến Tre, 17.1 -
20.4.1960; trận Tua Hai 26.1.1960 ). Sau Đồng khởi, Đảng bộ miền Nam được
khôi phục, đội quân chính trị, "đội quân tóc dài" của phụ nữ Nam Bộ,
ra đời; lực lượng vũ trang ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp hình
thành, hệ thống căn cứ địa tại chỗ được khôi phục, mở rộng... Ngày 20- 12-1960,
tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Đại hội đại biểu các giai cấp,
các đảng phái, các tôn giáo, các dân tộc toàn miền Nam họp tuyên bố thành lập
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và bầu Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm
Chủ tịch. Đại hội thông qua Tuyên ngôn và chương trình hành động. Cách mạng
miền Nam từ thoái trào và thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
Giai
đoạn 2 (1.1961 - 6.1965): Cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển
thành chiến tranh cách mạng, đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế
quốc Mỹ. Trước nguy cơ sụp đổ của chính
quyền Sài Gòn, Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược chiến tranh đặc biệt để đối phó với cách mạng miền Nam. Đây là một
loại hình chiến tranh trong khuôn khổ chiến lược toàn cầu phản ứng linh hoạt của đế quốc Mỹ. Đặc điểm của loại hình chiến
tranh này là sử dụng quân đội tay sai bản xứ làm công cụ tiến hành chiến tranh
với đôla, vũ khí Mỹ, do Mỹ chỉ huy. Vận dụng vào miền Nam, Mỹ tập trung xây
dựng lực lượng quân đội Sài Gòn, bộ máy cảnh sát; tăng cường viện trợ (quân sự
và kinh tế), cố vấn, lực lượng yểm trợ... nhằm "bình định" miền Nam
trong 18 tháng (từ giữa năm 1961 đến hết năm 1962) theo kế hoạch Xtalây - Taylo; sau đó 2 năm (1963 - 1964), theo kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara. Với sự tăng viện
về đôla, vũ khí, thiết bị chiến tranh, đội ngũ cố vấn của Mỹ, trong những năm chiến tranh đặc biệt, Mỹ, chính quyền và
quân đội Sài Gòn dồn sức gom dân lập ấp chiến lược bằng nhiều thủ đoạn và biện
pháp khốc liệt; mở nhiều cuộc hành quân càn quét, sử dụng các loại vũ khí hiện
đại áp dụng các chiến thuật "tân kỳ" như "thiết xa vận",
"trực thăng vận", các thủ đoạn chiến thuật được mệnh danh là
"bủa lưới phóng lao", "trên đe dưới búa", "phượng
hoàng vồ mồi"... , đánh phá phong trào cách mạng, đánh sâu vào toàn bộ hệ
thống căn cứ của cách mạng miền Nam, bịt kín vùng biên giới nhằm ngăn chặn sự
chi viện của miền Bắc.
Để đánh bại chiến lược chiến tranh mới của Mỹ,
quân và dân miền Nam tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang (cả khối cơ động và
lực lượng tại chỗ) đi đôi với xây dựng, củng cố và mở rộng hậu phương, căn cứ
địa tại chỗ trên chiến trường; phát triển chiến tranh du kích trên cả 3 vùng
chiến lược đi đôi với tăng cường đánh phá các vị trí xung yếu, nâng dần trình
độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực; phân chia lại chiến trường theo yêu
cầu phát triển của chiến tranh; đẩy mạnh sự chi viện từ miền Bắc cho cách mạng
miền Nam (mở rộng hành lang vận chuyển chiến lược bằng đường bộ, đường biển);
tăng cường và củng cố các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy của cách mạng miền
Nam (Trung ương Cục miền Nam, Khu uỷ, Bộ
chỉ huy Miền, Bộ chỉ huy quân sự các quân khu), thành lập Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam (15.2.1961). Cùng với quá trình này, quân và dân miền Nam kết
hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đánh địch bằng ba mũi giáp công
trên ba vùng chiến lược, đẩy mạnh chiến tranh du kích và từng bước nâng dần tác
chiến tập trung của bộ đội chủ lực, tiêu hao tiêu diệt một bộ phận sinh lực
địch và phương tiện chiến tranh của quân đội Sài Gòn. Trận Ấp Bắc (Cai Lậy, Mỹ Tho) ngày 2-1-1963 báo hiệu khả năng Quân
giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân miền Nam hoàn toàn có thể đánh bại các
biện pháp chiến lược của Mỹ trong "chiến tranh đặc biệt"ấmu chiến
thắng Ấp Bắc, phong trào phá ấp chiến lược dâng cao. Kế hoạch "bình định"
miền Nam trong 18 tháng của Xtalây - Taylo bị phá sản. Đồng thời, mặt trận đấu
tranh vũ trang có bước phát triển mới. Chiến tranh du kích phát triển rộng
khắp, kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Tác
chiến của bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực ngày càng phát triển. Phong trào
đấu tranh trong các đô thị đòi quyền dân sinh, dân chủ, bình đẳng tôn giáo,
chống bắt lính... dâng cao. Nội bộ Mỹ - chính quyền Sài Gòn lâm vào cuộc khủng
hoảng ngày càng sâu sắc. Mỹ buộc phải phế bỏ Diệm - Nhu (11-1963) hòng cứu vãn
tình hình.
Ở miền Bắc, công cuộc xây dựng hậu
phương vững mạnh về mọi mặt tiếp tục thu được những thành tựu trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng. Cách mạng Lào có những
bước phát triển mới với việc thiết lập chính quyền ba phái, gồm cả Pa-thét Lào.
Lúc này, mâu thuẫn Xô - Trung trở nên gay gắt tác động với sự nghiệp kháng
chiến của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, tháng 11-1963, Hội nghị Trung ương lần
thứ 9 đã kịp thời xác định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối đoàn kết quốc
tế của Đảng, về đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam. Dưới ánh
sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, miền Bắc nỗ lực đẩy mạnh sản xuất,
phấn đấu đạt các mục tiêu về kinh tế, văn hoá, xã hội của Kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất; đồng thời ra sức chuẩn bị mọi mặt nhằm bảo vệ vững chắc hậu phương
miền Bắc, chi viện tiền tuyến miền Nam.
Trước sức tiến công của cách mạng
miền Nam, đế quốc Mỹ càng tăng cường các hoạt động chống phá nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà. Đỉnh cao của các hoạt động đó của Mỹ là sử dụng hạm tàu Ma-đốc vi
phạm lãnh hải nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, dựng nên "sự kiện vịnh Bắc
Bộ" để tạo cớ ném bom miền Bắc (5-8-1964) và thúc giục Quốc hội Mỹ thông
qua Nghị quyết vịnh Bắc Bộ (ngày 7-
8-1964) trao cho Tổng thống Giônxơn quyền sử dụng lực lượng quân sự Mỹ trực
tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Hành động trên đây khiến cho tình
hình diễn biến ngày càng thêm căng thẳng. Tháng 3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh
triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt,
biểu thị ý chí đoàn kết chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc Việt Nam. Trên
chiến trường miền Nam, năm 1964 và những tháng đầu năm 1965, quân và dân các
địa phương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống phá bình định, đã làm thất bại
"quốc sách" ấp chiến lược. Bộ đội chủ lực mở nhiều trận đánh và một
số chiến dịch tiến công (Xem chiến dịch Bình
Giã 2.12.1964 - 3.1.1965; Ba Gia 28.5 - 20.7.1965; Đồng Xoài 10.5 - 22.7.1965). Chiến tranh
du kích tiếp tục phát triển rộng khắp, đặc biệt là hoạt động của bộ đội đặc
công, biệt động sâu trong vùng hậu cứ, hậu phương của chính quyền và quân đội
Sài Gòn. Các nỗ lực chống phá miền Bắc của Mỹ tỏ ra không hiệu quả. Lực lượng
phòng không ba thứ quân miền Bắc kịp thời đánh trả các hoạt động "trả
đũa" của không quân Mỹ ngay từ trận đầu (Xem Trận chiến đấu phòng không 5.8.1964) và trong các chiến dịch Mũi
lao lửa 1 (Flaming Dart 1), Mũi lao lửa 2 (Flaming Dart 2). Chính quyền Sài Gòn
tiếp tục lún sâu vào cuộc khủng hoảng nội bộ với 14 lần đảo chính và phản đảo
chính trong hơn một năm rưỡi kể từ ngày Diệm - Nhu bị lật đổ (11.1963 -
6.1965). Đến giữa 1965, hơn 50 vạn quân Sài Gòn - nòng cốt của chiến tranh đặc
biệt, không đủ sức đương đầu với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam; chương
trình bình định được coi là "xương sống" của cuộc chiến tranh này
cũng bị phong trào tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam làm phá sản;
chính quyền Sài Gòn - chỗ dựa về chính trị để Mỹ tiến hành chiến tranh đặc
biệt, ngày càng lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Chiến lược chiến tranh
đặc biệt, sau 4 năm triển khai thực hiện, về cơ bản, đã bị đánh bại trên chiến
trường miền Nam.
Giai
đoạn 3 (7.1965 - 12. 1968): cả nước có chiến tranh, đánh bại chiến lược chiến
tranh cục bộ, mở ra giai đoạn mới của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:
vừa đánh vừa đàm. Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ
chuyển sang thực hiện chiến lược chiến
tranh cục bộ bằng việc đưa quân chiến đấu Mỹ (đến cuối năm 1965 là 184.000
quân và năm 1968 là 542.000 quân) cùng quân một số nước đồng minh của Mỹ (Thái
Lan, Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia, Niudilân, Philippin (57.000 quân, lúc cao nhất
tới 70.300 quân) và quân đội Sài Gòn (650.000 quân, lúc cao nhất lên tới 1
triệu), hợp thành hai lực lượng chiến lược với những phương tiện chiến tranh
hiện đại nhất (trừ vũ khí nguyên tử); đồng thời sử dụng không quân, hải quân Mỹ
mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, hỗ trợ cho hoạt động quân sự ở miền Nam.
Mục tiêu chiến lược của Mỹ là sử dụng sức mạnh quân sự trực tiếp của Mỹ đánh
bại cách mạng miền Nam, dự định chỉ trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa năm
1965 đến hết năm 1967). Kế hoạch giành thắng lợi quyết định ở miền Nam của quân
Mỹ được phân thành 3 giai đoạn: giai đoạn đầu, triển khai quân Mỹ, chặn đứng
chiều hướng thua của quân đội Sài Gòn; giai đoạn 2, mở các cuộc tiến công chiến
lược "tìm diệt" Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và kiểm soát vùng
nông thôn; giai đoạn 3, hoàn tất các mục tiêu, rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam.
Đây là nỗ lực quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc
Mỹ kẻ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Hành động chiến tranh mới này của Mỹ
đặt cuộc kháng chiến của quân dân miền Việt Nam trước thủ thách lớn lao và tình
thế rất hiểm nghèo. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11
(3-1965) và 12 (12-1965), đã hạ quyết tâm động viên cao độ sức mạnh của cả
nước, ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân tiến bộ thế
giới, trước hết là các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, tiếp tục giữ vững và
phát huy tư tưởng chiến lược tiến công, ghìm chân và đánh thắng quân Mỹ trên chiến
trường miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc, làm thất bại chiến lược "chiến
tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.
Từ đầu năm 1965, miền Bắc chuyển
nhanh từ thời bình sang thời chiến: chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức; chuyển
hướng về kinh tế; tăng cường sức mạnh quân sự, bảo đảm cho miền Bắc có đủ điều
kiện và sức mạnh để cùng một lúc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân, hải quân Mỹ, duy trì và giữ vững sản xuất, tăng sức chi viện cho chiến
trường. Dưới đạn bom đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ, miền Bắc vẫn vững vàng
trong lửa đạn, không nao núng quyết tâm. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp vẫn
được giữ vững. Đời sống nhân dân nhìn chung vẫn ổn định mặc dù thiếu thốn, khó
khăn hơn. Lực lượng phòng không ba thứ quân trên miền Bắc phát triển nhanh
chóng, đánh trả có hiệu quả không quân, hải quân Mỹ. Giao thông vận tải không
bị ngưng trệ, ngày càng vươn sâu, vươn xa về phía Nam. Sự chi viện của hậu
phương cho tiền tuyến tăng nhanh theo từng năm, đáp ứng kịp thời và khá đầy đủ
nhu cầu về người, vũ khí, phương tiện chiến tranh của cách mạng miền Nam...
Ở miền Nam, từ những ngày đầu chiến tranh cục bộ và trong những năm
sau đó, lực lượng vũ trang ba thứ quân của cách mạng miền Nam đã chủ động đón
đánh quân viễn chinh Mỹ. Tiếp theo các trận đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ
(Xem trận Núi Thành, 26.5.1965; Vạn
Tường, 18 - 19.8.1965; trận Đất Cuốc, 8.11.1965; Bầu Bàng, 12.11.1965; chiến
dịch Plâyme, 19.10 - 20.11.1965), trong mùa khô 1965-1966, quân dân ta đã
đánh thắng cuộc phản công chiến lược lần
thứ nhất (mùa khô 1965-1966) làm thất bại chương trình bình định của Mỹ.
Tháng 6-1966, Quân uỷ Trung ương quyết định mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng
Trị, tạo hướng tiến công chiến lược mới vào nơi yếu của Mỹ và quân Sài Gòn trên
chiến trường, buộc quân Mỹ phải tiếp tục phân tán binh lực lên vùng rừng núi,
là nơi ta có điều kiện thực hiện tiêu diệt lớn lực lượng cơ động chủ lực của Mỹ
bằng chủ lực mạnh của miền Bắc, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của Mỹ ở miền
Nam, không để quân Mỹ và quân Sài Gòn mở cuộc tiến công trên bộ ra khu vực nam
Quân khu 4... Tháng 1-1967, Hội nghịâmn Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13
họp và quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm phối hợp với mặt trận
quân sự, chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, đánh bại các cố gắng
chiến tranh của Mỹ. Trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai (mùa khô
1966-1967), quân Mỹ dồn sức liên tiếp mở ba cuộc hành quân lớn là Át-tơn-bo-rơ (14.9 - 24.11.1966), Xi-đa-phôn (8.1 - 26.1.1967), Gian-xơn Xity (22.2 - 15-4-1967) tập
trung đánh vào miền Đông Nam Bộ. Dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân được
chuẩn bị sẵn, kết hợp tác chiến của lực lượngtại chỗ và lực lượng cơ động, quân
và dân miền Nam mở các trận đánh, các chiến dịch phản công, tiến công vào nhiều
mục tiêu hiểm yếu ở hậu phương, hậu cứ của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Thất bại
trong hai cuộc phản công chiến lược ở miền Nam cùng với sự bất lực của không
quân, hải quân trong việc ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam đã
đặt giới lãnh đạo Mỹ vào thế "tiến thoái lưỡng nan" về chiến lược,
làm cho nội bộ nước Mỹ, đặc biệt trong giới cầm quyền Mỹ bị phân hoá. Tháng
1-1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp thông qua Nghị quyết của Hội nghị Bộ
Chính trị tháng 12-1967, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời
kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968. Đêm 20 rạng
ngày 21-1-1968, chủ lực Quân giải phóng miền Nam bất ngờ nổ súng đánh vào tập
đoàn cứ điểm Khe Sanh (Xem Chiến dịch Đường
9 - Khe Sanh, 20.1 - 15.7.1968). Trong khi Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài
Gòn dồn tâm trí vào chiến sự ở nơi này thì đêm giao thừa và đêm mồng một Tết
Mậu Thân theo lịch miền Nam (30 và 31.1.1968), quân và dân miền Nam đồng loạt
tiến công vào 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn; đánh thẳng vào hầu
hết các cơ quan đầu não Trung ương, địa phương của Mỹ và chính quyền Sài Gòn
trên toàn miền Nam. Vùng nông thôn đồng bằng, với sự hỗ trợ của lực lượng vũ
trang, nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ trên những khu vực rộng lớn. Cuộc
tiến công và nổi dậy đã làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của Mỹ trên chiến
trường, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới lãnh đạo nước Mỹ.
Phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam ở Mỹ dâng cao. Đêm 31-3-1968,
Tổng thống Mỹ Giônxơn đơn phương tuyên bố: chấm dứt thời kỳ đưa quân Mỹ vào
tham chiến ở miền Nam, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng
cử đại diện đàm phán với Việt Nam dân chủ cộng hoà và không ra tranh cử nhiệm
kỳ tổng thống tiếp theo... Với tất cả những quyết định trên đây, Mỹ mặc nhiên
thừa nhận sự phá sản hoàn toàn của chiến lược "chiến tranh cục bộ".
Tháng 5 và tháng 8-1968, quân và dân miền Nam mở tiếp các đợt tiến công mà
hướng chính vẫn nhằm vào mặt trận đô thị, bồi tiếp đòn mạnh vào ý chí xâm lược
của Mỹ. Nhưng lực lượng ta cũng bị hao tổn nặng, thế trận chiến tranh nhân dân
bị suy giảm. Dù vậy, ngày 1-11-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn vẫn buộc phải tuyên
bố chấm dứt không điều kiện mọi hành động chống phá nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, chấp nhận Hội nghị 4 bên ở Pari.
Giai
đoạn 4 (1.1969 - 1.1973): chiến tranh lan rộng, Đông Dương thành một chiến
trường đánh Mỹ, tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam và đánh bại cuộc chiến
tranh phá hoại lần 2 của không quân, hải quân Mỹ ở miền Bắc, Hiệp định Pari
được kí kết, Mỹ rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam. Thất bại trên chiến trường Việt Nam đã đẩy nước Mỹ lâm vào
cuộc khủng hoảng kéo dài nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới lần 2, trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và đối ngoại. Lên làm tổng thống Mỹ
nhiệm kỳ 1969 - 1972, Ních-xơn và giới cầm quyền Mỹ quyết định điều chỉnh chiến
lược hòng tiếp tục thực hiện chính sách bã chủ toàn cầu và duy trì sự thống trị
miền Nam Việt Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới. Chiến lược toàn cầu mới này mang
tên "Học thuyết Ních-xơn" và chiến lược quân sự "Răn đê thực tế" thay thế cho chiến
lược "Phản ứng linh hoạt"
đã bị phá sản. Ứng dụng Học thuyết Ních-xơn vào Việt Nam, chính quyền Mỹ điều
chỉnh chủ trương "Phi Mỹ hoá"
của thời Giônxơn thành chiến lược "Việt
Nam hoá chiến tranh" nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu cơ bản của Mỹ là
bám giữ miền Nam Việt Nam, giảm bớt sự dính líu quân sự trực tiếp trên bộ nhưng
vẫn phải giành thế mạnh trên chiến trường để ép đối phương trên bàn thương
lượng theo những điều kiện có lợi cho Mỹ. Chiến lược này dự định trải qua 3
giai đoạn và mỗi giai đoạn gắn liền với việc trao dần gánh nặng chiến tranh lên
vai chính quyền và quân đội Sài Gòn trên cơ sở đánh giá những "tiến
bộ" của chương trình "Việt Nam hoá". Thực hiện chiến lược
"Việt Nam hoá chiến tranh", Mỹ đã tiến hành một loạt các biện pháp
tàn bạo và thâm độc về quân sự, chính trị, ngoại giao; các biện pháp đó được
mệnh danh là "chiến tranh huỷ diệt",
"chiến tranh giành dân" và
"chiến tranh bóp nghẹt".
Từ giữa năm 1968 đến những tháng đầu
năm 1970, cách mạng miền Nam lâm vào thời kỳ rất khó khăn, các lực lượng cách
mạng, yêu nước ở miền Nam phải đối mặt với những thử thách nặng nề trước sự
đánh phá dữ dội và những âm mưu, thủ đoạn "bình định" tàn bạo của đối
phương. Giữa những ngày tháng gian nan đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời tại thủ
đô Hà Nội (9 giờ 47 phút ngày 2.9.1969). Đây là tổn thất lớn cho toàn dân tộc
Việt Nam. Trong khó khăn ác liệt, quân dân Việt Nam vẫn giữ vững ý chí bền bỉ
kháng chiến. Từ đầu năm 1970, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương chuyển
hướng tiến công, lấy nông thôn làm hướng chính, tập trung nỗ lực ngăn chặn và
đẩy lùi các chương trình bình định nông thô của đối phương, ra sức chuẩn bị mọi
mặt, sẵn sàng đối phó có hiệu quả nếu địch liều lĩnh mở rộng chiến tranh sang
Campuchia và Lào. Sau cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Xihanúc (Xem Đảo chính Lonnon-Xiríchmatăc, 18.3.1970),
tháng 4-1970, Mỹ sử dụng 10 vạn quân Sài Gòn với sự yểm trợ của quân Mỹ tràn
qua biên giới Campuchia, phối hợp với quân Lonnon đánh vào hai khu vực Móc Câu
và Mỏ Vẹt nhằm tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam và chụp bắt cơ quan
chỉ đạo cách mạng miền Nam. Cùng lúc đó, Mỹ tăng cường chiến tranh ở Lào, sử
dụng máy bay ném bom ở các tỉnh phía nam Quân khu 4. Bộ Chính trị kịp thời nhận
định: từ đây, Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất, trong đó,
chiến trường chính vẫn là chiến trường
miền Nam. Bộ Chính trị chủ trương phối hợp chặt chẽ với Bạn đẩy mạnh tiến công
tiêu diệt địch, giải phóng đất đai; đồng thời phá kế hoạch "bình
định" ở chiến trường miền Nam. Theo phương hướng đó, Quân giải phóng miền
Nam đã cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tổ chức các chiến dịch phản
công đánh bại các cuộc tiến công lớn của địch (Xem Chiến dịch Đông Bắc Campuchia, 29.4 - 30.6.1970; Chiến dịch Đông Bắc
Campuchia, 4.2 - 31.5.1971; Chiến dịch Đường 6, 27.10 - 4.12.1971), mở rộng
vùng giải phóng của cách mạng Campuchia trên 5 tỉnh. Phát huy thắng lợi, những
tháng đầu năm 1971, Quân giải phóng miền Nam phối hợp với lực lượng cách mạng
Lào tiến hành thắng lợi chiến dịch phản công có ý nghĩa chiến lược (Xem Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, 30.1 -
23.3.1971), đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 - một cuộc hành quân nhằm
đánh chiếm Sê Pôn, phá tận gốc đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, chia cắt
3 nước Đông Dương và thử nghiệm công thức chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh: Bộ binh quân đội Sài Gòn + hoả lực + hậu
cần Mỹ. Đây là cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ trong giai đoạn Việt Nam hoá chiến tranh. Chiến thắng
Đường 9 - Nam Lào đã chấm dứt thời kỳ Mỹ và quân đội Sài Gòn tổ chức các cuộc
hành quân quy mô lớn tiến công và phản kích ra vòng ngoài trên chiến trường 3
nước Đông Dương. Từ ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược vào hệ
thống phòng ngự của địch trên 3 hướng, gồm các chiến dịch: chiến dịch Trị - Thiên (30.3 - 27.6.1972); chiến dịch bắc Tây Nguyên (30.3 - 5.6.1972); chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền Đông Nam Bộ (1.4.1972 - 19.1.1973).
Tiếp đó, Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam và nhân dân địa phương mở các chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá
bình định ở đồng bằng Khu 5, Khu 8 (Xem Chiến
dịch Bắc Bình Định, 9.4 - 3.5.1973; chiến
dịch đồng bằng sông Cửu Long, 10.6 - 10.9.1972); phối hợp với lực lượng vũ
trang cách mạng Lào mở chiến dịch tiến công giải phóng cánh đồng Chum và đánh
bại các cuộc phản kích, lấn chiếm của địch (Xem Chiến dịch cánh đồng Chum - Mường Sủi, 18.12.1971 - 6.4.1972, chiến dịch phòng ngự cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng, 21.5 - 5.11.1972)... Cuộc tiến công chiến lược đã đập vỡ nhiều tuyến
phòng ngự cơ bản của Mỹ và quân đội Sài Gòn, lực lượng tiến công đã chiếm giữ
thêm những địa bàn xung yếu có sức uy hiếp các căn cứ, chi khu, đô thị địch;
giải phóng nhiều vùng rộng lớn gồm hầu hết các tỉnh Quảng Trị, Công Tum, Bắc
Bình Định; hoàn chỉnh vùng giải phóng Đông Nam Bộ (Tây Ninh, Bình Long, Phước
Long), mở ra vùng giải phóng mới ở đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long. Mỹ
buộc phải sử dụng một lực lượng lớn không quân, hải quân chi viện cho quân đội
Sài Gòn phản kích ở miền Nam Việt Nam, mở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc Việt Nam. Đồng thời chính quyền Mỹ xúc tiến mạnh mẽ các hoạt động ngoại
giao với Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô
viết hòng gây sức ép buộc ta ngừng cuộc tiến công. Ở Pari, đàm phán 4 bên về
chiến tranh Việt Nam diễn ra căng thẳng. Tháng 12-1972, Mỹ mở cuộc tập kích
chiến lược đường không bằng máy bay ném bom chiến lược B.52 vào Hà Nội, Hải
Phòng hòng buộc Việt Nam dân chủ cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam phải
chấp nhận điều kiện Mỹ đưa ra trong đàm phán. Lực lượng phòng không 3 thứ quân
và nhân dân miền Bắc đã đánh trả hiệu quả, đập tan cuộc tập kích chiến lược của
không quân Mỹ (Xem Chiến dịch phòng không
Hà Nội - Hải Phòng, 18 - 29.12.1972). Những nỗ lực quân sự, chính trị,
ngoại giao không đạt được kết quả, Mỹ buộc phải kí kết Hiệp định Pari chấm dứt
chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân viễn chinh ra khỏi miền Nam, chấp
nhận quân đội Việt Nam dân chủ cộng hoà vẫn ở lại miền Nam Việt Nam.
Giai
đoạn 5 (1.1973 - 4.1975): tạo thế, tạo lực, nắm vững thời cơ chiến lược, tổ
chức và thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ký Hiệp định
Pari, chính quyền Ních-xơn vẫn nuôi hy vọng tiếp tục chiến tranh bằng quân đội
Sài Gòn hòng tạo ra một khoảng cách cần thiết giữa việc Mỹ rút ra với sự sụp đổ
của chế độ Sài Gòn, gỡ gạc thể diện cho Mỹ. Vì vậy, trước, trong và sau Hiệp
định, Mỹ tuồn vũ khí, gài nhân viên quân sự và cố vấn Mỹ ở lại làm nhiệm vụ chỉ
huy, hỗ trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn phá hoại Hiệp định Pari. Quân
đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm vùng
giải phóng. Trong khi đó, Mỹ duy trì lực lượng "ngăn đe" ở các vùng
phụ cận quanh Việt Nam, đồng thời tiếp tục các hoạt động ngoại giao hòng ngăn
chặn sự phát triển của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Các hoạt động chống phá Hiệp định
Pari của địch gây cho ta sự lúng túng trong việc đối phó. Tháng 7-1973, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 họp, khẳng định con đường của
cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền
Nam trong giai đoạn mới này là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Dưới ánh sáng Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, quân và dân ta ở miền Nam đẩy mạnh các hoạt động phản công và tiến công
địch, chặn đứng và đẩy lùi các hành động lấn chiếm của quân đội Sài Gòn. Ở vùng
do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, đặc biệt ở các đô thị lớn, phong trào đấu
tranh đòi thi hành Hiệp định Pari, tố cáo chính quyền Thiệu độc tài, tham
nhũng, bất công phát triển. Ở Mỹ, tháng 7- 1974, Ních-xơn buộc phải từ chức
tổng thống do vụ bê bối Oa-tơ-ghết, Phó tổng thống Mỹ Giê-rôn Pho lên thay.
Tháng 7-1974, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn trực tiếp
hướng dẫn Bộ Tổng tham mưu khởi thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.
Tháng 10 và tháng 12-1974, tập thể Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cùng các
cán bộ chủ chốt ở chiến trường họp bàn về quyết tâm và kế hoạch giải phóng hoàn
toàn miền Nam trong thời gian 2 năm 1975-1976. Trong lúc đó, chiến dịch đường
14 - Phước Long (Xem Chiến dịch Đường 14
- Phước Long, 13.12.1974 - 6.1.1975) giành được thắng lợi. Đây là cơ sở để
Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng kết luận: khả năng đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp
bằng lực lượng quân sự là rất thấp và dù chúng có can thiệp như thế nào ta cũng
có đầy đủ quyết tâm và điều kiện đánh thắng. Bộ Chính trị hạ quyết tâm và thông
qua kế hoạch chiến lược cơ bản giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 và 1976 và
dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền
Nam trong năm 1975. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định chọn Tây
Nguyên là hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975. Ngay sau đó, hai miền Nam,
Bắc khẩn trương hoàn tất các mặt chuẩn bị, cả về thế và lực. Ta thành lập 3
quân đoàn 1, 2, 4; mở rộng và kéo dài tuyến vận chuyển chiến lược Bắc - Nam tới
Nam Bộ; miền Bắc dồn sức chi viện mạnh mẽ, toàn diện, liên tục cho miền Nam.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải
phóng hoàn toàn miền Nam mở màn từ ngày 4-3-1975 bằng chiến dịch Tây Nguyên (4.3 - 3.4.1975) mà trận đột phá chiến lược
là trận Buôn Ma Thuột (10 - 11.3.1975);
tiếp đó đánh bại cuộc phản kích của sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn, truy kích quân
đội Sài Gòn rút chạy trên đường số 7 (nay là đường 25), tiêu diệt và làm tan rã
Quân đoàn 2 - Quân khu 2 của địch, giải phóng Tây Nguyên, nhanh chóng phát
triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung. Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết
tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975. Trong lúc đó, từ ngày
6-3-1975, ta bắt đầu tiến công địch ở Trị - Thiên và Khu 5. Đến ngày 21-3, phát
huy thắng lợi nhanh chóng và dồn dập ở Tây Nguyên, đồng bằng miền Trung, hai
chiến dịch ở Quân khu 5 và Quân khu Trị - Thiên đã phát triển thành đòn tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng.
Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa
mưa năm 1975. Ngày 26-3, Huế được giải phóng. Ngày 29-3, Đà Nẵng được giải
phóng. Sau 25 ngày đêm chiến đấu (6.3 - 29.3), ta tiêu diệt và làm tan rã toàn
bộ lực lượng Quân đoàn 1, Quân khu 1 của địch. Đến ngày 3-4, ta giải phóng hoàn
toàn các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung. Từ ngày 14 đến ngày 29, toàn bộ
các đảo thuộc quần đảo Trường Sa được giải phóng. Từ ngày 26-4, chiến dịch Hồ Chí Minh (26 - 30.4.1975)
bắt đầu. Sau khi đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn - Gia Định, sáng
ngày 30.4.1975, Quân giải phóng miền Nam thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu chủ
yếu trong nội đô, kết hợp với nổi dậy của nhân dân, tiêu diệt và làm tan rã
Quân đoàn 3 - Quân khu 3 của địch, giải phóng Sài Gòn - Gia Định, buộc chính
quyền Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện. Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân ta từ đầu tháng 3-1975, đã giải phóng
toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 4 -
Quân khu 4 của địch.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đã kết thúc
thắng lợi. Nhân dân Việt Nam đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới
quy mô lớn nhất, thời gian dài nhất, ác liệt nhất từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai. Trong cuộc chiến tranh này, 6 đời tổng thống Mỹ kế nhiệm nhau lập các
kế hoạch chiến lược, chi gần 700 tỉ đôla, huy động 22.000 xí nghiệp với gần 6
triệu công nhân công nghiệp và hơn 1/3 tổng số các nhà khoa học, 260 trường đại
học Mỹ tham gia nghiên cứu kế hoạch chiến lược chế tạo, sản xuất các loại vũ
khí và phương tiện chiến tranh; huy động 6,5 triệu lượt binh sĩ Mỹ trực tiếp
tham chiến, lúc cao nhất có mặt ở miền Nam hơn nửa triệu quân; ném xuống Việt
Nam 7.850.000 triệu tấn bom, hàng chục triệu lít chất độc diệt cây, sử dụng
những loại vũ khí, kỹ thuật mới nhất (trừ vũ khí hạt nhân); bị tổn thất 360.000,
trong đó chết 58.191. Phía Việt Nam, có 1,1 triệu quân nhân hy sinh, 600.000 bị
thương, 300.000 mất tích, gần 2 triệu dân thường bị giết hại, 2 triệu mang
thương tật, 2 triệu người bị phơi nhiễm hoá chất độc hại. Thắng lợi trọn vẹn
của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ là thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ Việt
Nam; của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa 3
dân tộc trên bán đảo Đông Dương; của sự kế thừa và phát huy lên tầm cao mới
truyền thống đánh giặc và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Tiếp sau kháng chiến
chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ đã hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc kéo dài hơn 100 năm của nhân dân Việt Nam, mở ra kỉ nguyên mới - đất
nước độc lập, thống nhất, đi lên xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh; đồng thời
tạo điều kiện cho cách mạng Lào và cách mạng Campuchia giành thắng lợi quyết
định, góp phần quan trọng vào cuộc chiến tranh của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!