Mai Hoa
tổng hợp
Trong quan hệ giữa nhiều quốc gia, vấn đề biên
giới là một trong những vấn đề vô cùng nhạy cảm. Đối với mọi quốc gia, việc xác
định đường biên giới là một việc cần thiết và quan trọng, bởi biên giới là một
sáng tạo pháp lý để xác định chủ quyền. Biên giới, chủ quyền lãnh thổ là vô
cùng thiêng liêng và bất khả xâm phạm (inviolabilite).
Với Trung Quốc, Việt Nam có đường biên giới đất liền dài khoảng 1.406
km, từ ngã ba biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Lào đến bờ biển vịnh Bắc Bộ
(Quảng Ninh - Vân Nam), đi qua 7 tỉnh biên giới phía Việt Nam, tiếp giáp với
hai tỉnh phía Trung Quốc[1].
Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là đường biên giới thực tế lịch
sử, đến cuối thế kỷ XIX đã trở thành đường biên giới pháp lý (được luật pháp
quốc tế thừa nhận).
Từ khi có quan hệ chính thức giữa hai Nhà nước, vấn đề biên giới
được hai bên thỏa thuận, giải quyết trên tinh thần thông cảm, nhân nhượng. Trong những năm Việt Nam bận với cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và việc quản lý biên giới chủ yếu do chính
quyền địa phương hai bên thực hiện và không quan tâm nhiều đến vấn đề pháp lý,
chủ yếu quản lý theo tập quán, theo các bản đồ Pháp vẽ, hoặc theo bản đồ hiện
hành do Trung Quốc xuất bản giúp Việt Nam.
Tháng 12-1952, hai Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc ký Hiệp định phối hợp công tác biên phòng Việt – Trung; năm 1954, hai
nước ký tiếp Hiệp định bổ sung; tháng 5-1955, ký kết Hiệp định về mở mậu dịch tiểu ngạch ở biên giới Việt - Trung; năm
1963, ký kết Hiệp định hiệp đồng bảo vệ
an ninh khu vực biên giới; năm 1955, ký kết Hiệp định đường sắt biên giới
Việt - Trung (đến năm 1971 Hiệp định này được ký lại). Những hiệp định này cùng
với hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 là cơ sở để hai nước cùng nhau
quản lý, xây đắp biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị.
Sau khi miền Bắc Việt Nam
giải phóng, vấn đề biên giới với Trung Quốc một lần nữa được Đảng, Nhà nước
Việt Nam quan tâm giải quyết. Từ ngày 6 đến ngày 9-11-1956, năm tỉnh biên giới
Việt Nam - Trung Quốc (Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Đông, Quảng Tây) đã gặp
nhau hội đàm 10 vấn đề về biên giới[2]
và đã đi đến những thoả thuận về quản lý đường biên giới chung. Ngày 2-11-1957,
BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư cho BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc
xác nhận biên bản thoả thuận giữa năm tỉnh biên giới hai bên đã ký kết tháng
11-1956. Phía Việt Nam đề nghị Trung Quốc hai vấn đề: 1). Vấn đề quốc giới cần
giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý hiện có hoặc được xác định lại và phải
do Chính phủ hai nước quyết định; 2). Nghiêm cấm chính quyền địa phương không
được thương lượng với nhau để cắm mốc lại, hoặc cắt nhượng đất cho nhau. Theo
nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi thì “đề nghị này được đưa ra với thiện chí bảo đảm
tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai Công ước 1887 và 1895 hoạch định và đã
được phân giới cắm mốc”[3].
Tháng 4-1958, BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc có phúc đáp, “đồng ý với phía Việt
Nam tôn trọng nguyên trạng của đường biên giới theo các Công ước 1887 và 1895”[4].
Hai nước cũng thỏa thuận nếu cần thiết sẽ tiến hành các cuộc hội đàm cấp tỉnh
để giải quyết những vấn đề cụ thể thuộc về dân sinh và trật tự trị an ở vùng
biên giới. Trên thực tế đã diễn ra nhiều cuộc hội đàm giữa các địa phương và đã
đi đến một số quy định về việc đi lại, buôn bán, thăm hỏi… giữa nhân dân các
tỉnh biên giới. Trong những năm 1958 - 1959, hai nước tiến hành trao trả ruộng
đất, rừng cây hỗn canh và giải quyết những tồn tại phức tạp hoặc do lịch sử để
lại, hoặc mới nảy sinh như: Bia mốc giới bị xê dịch, xâm canh, xâm cư, di cư,
trị an biên giới…
Có một thực tế là trải qua một thời gian dài,
sau những biến đổi về chính trị, những thay đổi về mặt thiên nhiên đã làm cho
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc trên thực địa có một số thay đổi, đặc
biệt là giữa hai bên đã có những nhận thức khác nhau về chủ quyền đối với một
số khu vực, làm nảy sinh những bất đồng, tranh chấp, nhưng khi quan hệ Việt -
Trung còn êm ấm, những xung đột này mang tính chất cục bộ và nhất thời. Những
tranh chấp đó được hai Đảng, hai Nhà nước
Việt Nam, Trung Quốc giải quyết trên tinh thần hợp tác, hữu nghị. Như vậy, trước năm 1975, những vấn đề về
biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc về cơ bản vừa thể hiện tính
nguyên tắc, tôn trọng luật pháp quốc tế, vừa thể hiện tình hữu nghị giữa hai
dân tộc[5].
Và theo R.V.Pretcot thì đây là "một trong những biên giới được xác định
tốt nhất trong khu vực"[6].
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng xấu đi
với những xung đột ở biên giới Việt - Trung tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn vào
cuối năm 1976. Từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ những hành động xâm phạm
lãnh thổ, vũ trang khiêu khích biên giới Việt Nam của Trung Quốc ngày càng
nghiêm trọng. Đặc biệt, từ tháng 7-1978,
Trung Quốc đã sử dụng hành động này phục vụ cho mục đích chuẩn bị tạo cớ, gây
cuộc tấn công dọc theo toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam[7].
Song song với việc liên tục xâm phạm chủ quyền
và lãnh thổ của Việt Nam, Trung Quốc còn
vận động các nước ASEAN vào một mặt trận chống Việt Nam. Ngày 5-11-1978, trong
chuyến thăm các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu về nguy cơ của “đại bá”
Liên Xô và “tiểu bá” Việt Nam, dẫn chứng bằng
việc Việt Nam - Liên Xô ký kết Hiệp ước[8]
(3-11-1978), kêu gọi ASEAN thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam. Sang
đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tiếp tục đi thăm Mỹ, nhằm tranh thủ sự đồng tình
của Mỹ đối với hành động chống Việt Nam của Trung Quốc, nếu Trung Quốc phát
động chiến tranh, để “dạy cho Việt Nam một bài học thích đáng”[9].
Cùng với vận động ngoại giao, Trung Quốc tăng cường chuẩn bị mọi
mặt cho cuộc tấn công quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới với Việt Nam, tập trung
những quân đoàn chủ lực dọc theo biên giới Việt - Trung. Ngày 17- 2- 1979, sau
sự chuẩn bị kỹ lưỡng trên cả hai phương diện trong nước và quốc tế, Trung Quốc
đưa 60 vạn quân tấn công dọc theo biên giới phía Bắc, đánh sâu vào lãnh thổ
Việt Nam cùng với gần 800 xe bọc thép, xe tăng, trọng pháo và máy bay các loại[10].
Cuộc tấn công dọc tuyến biên giới phía Bắc
(1979) đã khoét sâu thêm hố ngăn cách giữa Trung Quốc và Việt Nam, làm quan hệ
hai nước vốn đã rạn nứt, nay rơi vào tình trạng dường như không thể cứu vãn. Các nhà bình luận
phương Tây gọi đây là "cuộc chiến
giữa những người anh em Đỏ", hay "cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba". H. Kissinger đánh giá về cuộc chiến tranh này như sau: “Yếu
tố ý thức hệ đã biến mất khỏi xung đột. Các trung tâm quyền lực của cộng sản
cuối cùng đã tiến hành chiến tranh giành thế cân bằng quyền lực không phải căn
cứ vào ý thức hệ mà hoàn toàn xuất phát từ lợi ích dân tộc”[11].
Về phía Trung Quốc, biện minh cho hành động của mình, Trung Quốc tuyên bố đây
chỉ là “một cuộc phản kích để tự vệ” (?!). Thực chất, "đây là một cuộc
chiến tranh xâm lược toàn diện bằng lực lượng chính quy của hầu hết các quân
khu Trung Quốc"[12].
Trung Quốc "có sự chuẩn bị kỹ càng về các mặt"[13].
[1] Đường biên giới với Trung Quốc được phân định trong các
Công ước ngày 26- 6-1887 và ngày 20-6-1895 giữa Chính quyền Pháp (đại diện cho
Việt Nam lúc bấy giờ) và nhà Thanh (đại diện cho Trung Quốc). Công ước
hoạch định biên giới Pháp - Thanh ngày
26-6-1887 đã hoạch định lại một số đoạn biên giới tiếp giáp giữa Bắc Kỳ với Vân
Nam và nói rõ đường kinh tuyến 105°43' là đường phân chia chủ quyền các đảo.
Công ước bổ sung hoạch định biên giới Pháp - Thanh ngày 20-6-1895 thống
nhất hoạch định các đoạn biên giới mà hai bên còn gác lại trong các văn bản
hoạch định trước và hoạch định mới đoạn biên giới giữa Bắc Kỳ và Vân Nam từ
sông Đà đến sông Mê Công. Trên cơ sở của các bản Công
ước này, từ năm 1889 đến năm 1897, trên toàn bộ tuyến biên giới đất liền
Việt Nam - Trung Quốc, Pháp và nhà Thanh đã hai bên
đã tổ chức phân giới, xác định 314 vị trí mốc và
đã cắm được 341 mốc giới trên thực địa. Nhìn chung, trong quá trình đàm
phán thương lượng về biên giới, chính quyền Pháp và nhà Thanh đã vận dụng một
số nguyên tắc phổ biến của pháp luật quốc tế cũng như thực tiễn quốc tế trong
quá trình xác lập đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung quốc,
thực hiện đầy đủ các bước từ xác định nguyên tắc, hoạch định, phân giới và tiến
hành cắm mốc trên thực địa cũng như các thủ tục pháp lý khác. Về mặt pháp lý,
Công ước năm 1887 và Công ước bổ sung năm 1895 cùng các biên bản, bản đồ phân
giới cắm mốc thực hiện hai Công ước là một thể thống nhất các văn bản pháp lý
bổ sung cho nhau, cung cấp khá đầy đủ các yếu tố về đường biên giới đất liền
Việt Nam - Trung Quốc. Như vậy, về cơ bản, hai công ước Pháp - Thanh năm
1887 và 1895 thừa nhận đường biên giới lịch sử truyền thống giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Tuy nhiên, trong quá trình phân giới cắm mốc, phía Pháp đã nhân
nhượng một số vùng lãnh thổ của Việt Nam cho Trung Quốc như Giang Bình, Bát
Trang (Quảng Ninh), Đèo Luông (Cao Bằng), Tụ Long (Hà Giang). Trong giai đoạn
chế độ Quốc dân đảng ở Trung Quốc, quan hệ biên giới giữa Pháp và Trung Quốc cơ
bản ổn định, hệ thống mốc giới được bảo vệ, nhưng lợi dụng tình hình Pháp bị sa
lầy và thất bại liên tiếp trong chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Tưởng
Giới Thạch đã có hành động di chuyển, phá hoại một số mốc giới, lấn chiếm quản
lý nhiều khu vực đất đai sang phía Việt Nam.
[2]Đó là các vấn đề:
Ruộng đất xâm canh; rừng cây ở bên kia biên giới; việc chăn nuôi qua biên giới;
vấn đề thuỷ lợi, nguồn nước, đánh bắt cá trên sông, suối biên giới; vấn đề vay
nợ; vấn đề quốc tịch, kiều dân; vấn đề thông hôn; vấn đề di cư; vấn đề trị an;
vấn đề quốc giới.
[3] Lưu Văn Lợi, Việt Nam: Đất - Biển - Trời, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.75
[4] Long Việt, "Vietnam - Chia Lanh Border Treaty - a common
victory of two nations”, Vietnam Law and Legal Forum, No 65, 1-2000.
[5]Vấn đề kế thừa di sản
của các đường biên giới xác lập trong thời kỳ thực dân đã được đặt ra, coi đó
là căn cứ chính để các bên đàm phán thoả thuận về một đường biên giới mới -
đường biên giới quốc tế giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền. ừ sau khi nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời (năm 1945) và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
ra đời (năm 1949), trên thực tế hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã duy trì sự
quản lý biên giới thực tế cơ bản dựa trên đường biên giới đã được hoạch định
bởi hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 và kết quả thực hiện hai Công
ước đó (kết quả phân giới, cắm mốc trên thực địa giữa chính quyền Pháp và nhà
Thanh), nhằm giữ sự ổn định ở vùng biên giới chung giữa hai nước. Trước năm
1975, Việt Nam trong tình trạng bị chia cắt, cần phải tập trung sức người, sức
của vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nên công tác đàm phán, giải
quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ với các nước láng giềng, trong đó có
Trung Quốc chưa có điều kiện đặt ra để giải quyết một cách thực chất..
[6] R.V.Pretcot (1977), Những biên giới của Đông Nam Á, Nxb
Membuốc, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, tr.60.
[7] Theo thống kê của
Việt Nam công bố trong Bị vong lục
của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ngày 15-2-1979, thì số vụ xâm phạm vũ
trang của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam năm 1978 là 583 vụ, tháng 1 và những
tuần lễ đầu tháng 2-1979 có tới 230 vụ (dẫn theo Bị vong lục Bộ Ngoại giao Việt Nam, Báo Nhân dân, ngày 16-2-1979, tr. 4).
[8]Việt
Nam và Liên Xô đã ký
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện
(11-1978) có thời hạn 25 năm (mặc nhiên gia hạn 10 năm, nếu một trong hai bên
không tuyên bố muốn chấm dứt hiệu lực của Hiệp định trước khi Hiệp định hết hạn
một năm), cam kết không ngừng phát triển quan hệ mọi mặt, mở rộng hợp tác kinh
tế, văn hoá, khoa học – kỹ thuật giữa hai nước. Điều 6 của Hiệp định ghi rõ: “Trong
trường hợp một trong hai bên bị tiến công hoặc bị đe doạ tiến công, thì hai bên
kí hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau, nhằm loại trừ mối đe doạ đó và
áp dụng các biện pháp thích đáng có hiệu lực, để bảo đảm hoà bình và an ninh
của hai nước”.
[9] Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, (1975 - 1995), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 1998,Tập 2, tr. 122.
[10] Để trả lời, phía Việt Nam cũng phản
kích đánh vào Malipô, Ninh Minh- hai thành phố biên giới của Trung Quốc.
[11]Dẫn theo “Kissinger
bàn về Trung Quốc”, Pháp luật, Trang
thông tin điện tử báo Pháp luật T.P Hồ Chí Minh, ngày 12-2-2012.
[12] Bộ Ngoại giao (1979), Sự
thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Sách trắng, Nxb Sự
thật, Hà Nội, tr.91
[13] Bộ Ngoại giao (1979), Sự
thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, sđd, tr.91.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!