QUÂN
KHU 6, tổ chức hành chính QS theo vùng lãnh
thổ, QK6 có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh ở cực Nam Trung Bộ trong KCCP và KCCM. Thành lập 1961, trên cơ sở các tỉnh
thuộc Nam Liên khu 5 với tên gọi T6, do BTL Miền (B2) trực tiếp chỉ đạo, gồm 7
tỉnh: Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Đắc Lắc và Quảng
Đức (tỉnh do chính quyền Sài Gòn thành lập 1959, gồm 3 huyện của Đắk Nông ngày
nay). Địa bàn QK6 thay đổi nhiều:
cuối 1961, tách Lâm Đồng, Quảng Đức để cùng Phước Long (tách từ Quân khu 7)
thành lập Khu 10 (còn gọi là Quân khu 10 hay T10), do BTL Miền (B2) trực tiếp
chỉ đạo. 10.1963, QK6 có thêm các tỉnh Khu 10 (do Khu 10 giải thể) và tách các
tỉnh Khánh Hoà, Đắc Lắc về Quân khu 5.
Năm 1966, tách các tỉnh Quảng Đức, Phước Long để cùng Bình Long (tách từ Quân khu 7) tái lập Khu 10. Từ 1967-1969, có thêm tỉnh Bắc Bình (do chính quyền Sài Gòn thành lập) gồm 3 huyện (Phan Lý, Hoà Đa và Tuy Phong); 1969, Bắc Bình sát nhập vào Bình Thuận và Bình Tuy (do chính quyền CM thành lập năm 1969) gồm 3 huyện (Hàm Tân, Hoài Đức và Tánh Linh). 1972-1975, QK6 gồm các tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Tuy, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Quảng Đức (Khu 10 giải thể năm 1971, Quảng Đức giải thể và sát nhập vào Lâm Đồng, Đắc Lắc, Phước Long; 1974, Quảng Đức được tái lập, thuộc QK6). Tháng 5.1976, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định sát nhập QK6 vào Quân khu 5. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mô (Tư Khiêm). KCCM, cứu nước, các LLVT và nhân dân trên địa bàn quân khu đã từng bước đẩy mạnh chiến tranh nhân dân phát triển toàn diện, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của để quốc Mỹ ở địa phương; đồng thời phối hợp với các chiến trường mở các chiến dịch, các cuộc tiến công chiến lược 1968, 1972, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 1966, tách các tỉnh Quảng Đức, Phước Long để cùng Bình Long (tách từ Quân khu 7) tái lập Khu 10. Từ 1967-1969, có thêm tỉnh Bắc Bình (do chính quyền Sài Gòn thành lập) gồm 3 huyện (Phan Lý, Hoà Đa và Tuy Phong); 1969, Bắc Bình sát nhập vào Bình Thuận và Bình Tuy (do chính quyền CM thành lập năm 1969) gồm 3 huyện (Hàm Tân, Hoài Đức và Tánh Linh). 1972-1975, QK6 gồm các tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Tuy, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Quảng Đức (Khu 10 giải thể năm 1971, Quảng Đức giải thể và sát nhập vào Lâm Đồng, Đắc Lắc, Phước Long; 1974, Quảng Đức được tái lập, thuộc QK6). Tháng 5.1976, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định sát nhập QK6 vào Quân khu 5. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mô (Tư Khiêm). KCCM, cứu nước, các LLVT và nhân dân trên địa bàn quân khu đã từng bước đẩy mạnh chiến tranh nhân dân phát triển toàn diện, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của để quốc Mỹ ở địa phương; đồng thời phối hợp với các chiến trường mở các chiến dịch, các cuộc tiến công chiến lược 1968, 1972, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, Từ điển Lịch sử quân sự Việt
Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!