Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2013

TIẾN CÔNG HUẾ XUÂN MẬU THÂN 1968 (31.1 - 29.2.1968)


TIẾN CÔNG HUẾ XUÂN MẬU THÂN 1968 (31.1 - 29.2.1968), tiến công của lực lượng vũ trang Quân khu Trị - Thiên kết hợp với nổi dậy của nhân dân miền Nam nhằm giành quyền làm chủ, tiêu diệt lực lượng và cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn tại Thừa Thiên - Huế (trọng điểm là thành phố Huế) trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) trên toàn miền Nam Việt Nam.
Cuối năm 1967, để chuyển cuộc kháng chiến chống Mỹ sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên - Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế.
Việc thực hiện thành công nhiệm vụ ở những trọng điểm này có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ cuộc tiến công Tết trên toàn miền Nam.
 Huế là thành phố lớn thứ ba ở miền Nam, nơi tập trung các cơ quan đầu não chỉ đạo chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở vùng 1 chiến thuật, tập trung nhiều binh lực cũng như phương tiện chiến tranh. Mục đích đề ra cho cuộc tiến công là đánh chiếm Huế, đập tan chính quyền Sài Gòn, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân trên toàn miền Nam. Quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở mặt trận Huế có khoảng 25.000 đến 30.000 quân, gồm 14 tiểu đoàn bộ binh (8 tiểu đoàn quân Sài Gòn, 6 tiểu đoàn quân Mỹ), 2 trung đoàn thiết giáp, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn biệt kích, 2 tiểu đoàn công binh, 2 tiểu đoàn vận tải, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 2 tiểu đoàn hải thuyền, 12 đại đội bảo an, 3 tiểu đoàn cảnh sat, 96 trung đội dân vệ, 18 đoàn bình định, 100 máy bay..., sau tăng lên 23 tiểu đoàn (15 tiểu đoàn Mỹ) và được sự chi viện mạnh của không quân, pháo hạm...  Toàn bộ lực lượng này được bố trí trên 2 khu vực Bắc và Nam thành phố Huế; mỗi khu vực, hệ thống phòng thủ được tổ chức thành vòng trong và vòng ngoài kiên cố hỗ trợ cho nhau. Lực lượng quân sự của phía VNDCCH có 2 trung đoàn (6 và 9) cùng 4 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo phản lực ĐKB, các đội biệt động thành, bộ đội địa phương huyện và du kích xã, sau được tăng cường 3 trung đoàn bộ binh của các sư đoàn 324, 325. Ở nội thành Huế, phía cách mạng có 8 chi bộ Đảng, 100 cơ sở bí mật và nửa bí mật. Theo kế hoạch quân sự, mặt trận Huế được chia làm 2 cánh, lấy sông Hương làm giới tuyến chiến đấu giữa mỗi cánh. Cánh Bắc, khu tả ngạn sông Hương và huyện Hương Trà, là hướng tiến công chủ yếu. Cánh Nam,  khu hữu ngạn sông Hương và hai huyện Hương Thuỷ, Phú Vang, là hướng tiến công quan trọng, đồng thời là hướng chủ yếu đánh lực lượng phản kích. Kế hoạch khởi nghĩa dự định trong đêm tiến công và ngày hôm sau, sẽ phát động nhân dân tiến hành khởi nghĩa vũ trang chiếm cơ quan đầu não thành phố và toàn bộ hệ thống chính quyền Sài Gòn ở nông thôn; thực hiện vũ trang toàn dân, đưa sức chiến đấu của nhân dân lên cao nhất, cùng với bộ đội tiêu diệt, tiêu hao lực lượng đối phương; nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, xây dựng chính quyền để phát triển thắng lợi; nhanh chóng phát triển dân quân du kích đánh lực lượng phản kích, giữ vững chính quyền; chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu mới. Ban chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy toàn Khu và Mặt trận Huế do Ban Thường vụ Khu uỷ và Thường vụ Quân khu hợp thành. Về quân sự, một bộ chỉ huy Mặt trận Huế được chỉ định gồm Tư lệnh Lê Minh, Chính uỷ Lê Chưởng, Phó Tư lệnh Nam Long, Tham mưu trưởng Đặng Kinh.
Giai đoạn chuẩn bị tiến công (7.1 - 30.1.1968): Lực lượng vũ trang Quân khu đẩy mạnh hoạt động trên 2 hướng Nam và Bắc thành phố Huế nhằm gìm chân, nghi binh đánh lạc hướng đối phương (hướng Quảng Trị) và chặn cắt giao thông tiếp tế của đối phương (hướng Phú Lộc). Vùng ven thành phố Huế, Quân giải phóng duy trì hoạt động diệt ác, trừ gian, khống chế những nhân viên chỉ điểm và làm việc trong bộ máy chính quyền Sài Gòn; tập kích một số mục tiêu nhỏ vùng phụ cận như ấp Mỹ Xuyên (Phong Điền), Thủ Lệ (gần Sịa), phá đường An Lỗ - Sịa, chặn đánh 2 cuộc càn của quân Sài Gòn vào vùng Hương Trà; xây dựng những bàn đạp tiến công thành phố, đánh phá giao thông, tiêu hao, kìm chân đối phương. Chiều ngày 30.1.1968 (chiều mồng 1 Tết theo lịch miền Nam), tất cả các đơn vị Quân giải phóng, rời căn cứ hành quân chiếm lĩnh bàn đạp xuất phát tiến công.
Giai đoạn thực hành tiến công và nổi dậy (31.1 - 29.2.1968): lực lượng Quân khu và nhân dân tiến hành cuộc tiến công và nổi dậy ở thành phố Huế. 02h 33 phút ngày 31.1 (tức rạng ngày mồng 2 Tết theo lịch miền Nam), lực lượng vũ trang Quân giải phóng đồng loạt tiến công vào các mục tiêu đã định. Pháo binh Quân giải phóng đồng loạt dội đạn xuống các mục tiêu của đối phương ở khu Tam Giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Động Toà, Đông Ba, mở đầu cho cuộc tiến công đánh chiếm thành phố Huế. Ngay sau đó, lực lượng tiến công trên 2 cánh đồng loạt đánh vào 39 khu vực mục tiêu trong và ngoài thành phố. Ở cánh Bắc, Quân giải phóng tiến công các mục tiêu như đồn Mang Cá (nơi đặt sở chỉ huy của sư đoàn 1 bộ binh quân đội Sài Gòn), khu An Hoà, cửa Chánh Tây, sân bay Tây Lộc, cửa Hữu, cửa Thượng Tứ, khu Đông Ba, khu Cột Cờ, khu Đại Nội, cầu Bạch Hổ, khu vực Kim Long, khu Gia Hội, Kẻ Vạn, Văn Thánh... Hầu hết các mục tiêu quy định đều đã bị Quân giải phóng đánh chiếm, chỉ trừ khu Mang Cá và sân bay Tây Lộc. Ở cánh Nam, Quân giải phóng tiến công căn cứ trung đoàn 7 thiết giáp quân đội Sài Gòn ở Tam Thai, đại đội Nam Triều Tiên ở khu Tàu Lăng, khu công binh Nam Giao, sở chỉ huy lực lượng cảnh sát dã chiến, khu kho Rèn, Ngã Sáu, Đài phát thanh, ty Sắc tộc, chiếm Toà tỉnh trưởng, giải phóng 2.000 cán bộ, chiến sĩ bị giam cầm ở nhà lao Thừa Phủ; chiếm khu vực nhà ga, xưởng quân cụ, tiến công khách sạn Mỹ là khách sạn Hương Giang và khách sạn Thuận Hoá. Sáng ngày 1.2, phần lớn thành phố đã thuộc quyền kiểm soát của Quân giải phóng. Lá cờ cách mạng tung bay trên cột cờ Thành Nội. Sáng ngày 3.2, quần chúng bắt đầu nổi dậy lùng diệt, truy quét ác ôn và tàn binh quân đội Sài Gòn, phá bỏ bộ máy kìm kẹp, thiết lập chính quyền cách mạng ở cơ sở, xây dựng công sự, trận địa phòng thủ, cứu chữa thương binh, vận động binh lính và nhân viên chính quyền Sài Gòn ra trình diện chính quyền cách mạng. Các tổ chức đoàn thể mới như "Hội binh sĩ yêu nước", "Đoàn nghĩa binh cảnh sát"... được thành lập, tập hợp hàng trăm hội viên, đoàn viên. "Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình" (gồm các nhân sĩ, trí thức, sinh viên, chức sắc tôn giáo yêu nước) ra đời, phát lời kêu gọi các tầng lớp nhân dân đoàn kết đứng lên chống Mỹ. Tại các huyện vùng ven như Hương Trà, Hương thuỷ, Phú Vang, lực lượng vũ trang được sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân đánh chiếm các mục tiêu vòng ngoài của đối phương, bức rút đồn bốt, gọi hàng và làm tan rã lực lượng dân vệ, truy quét bọn ác ôn và tay sai ngoan cố, mở rộng vùng giải phóng xung quanh Huế. Trên các hướng phối hợp (Phú Lộc, Phong Điền, Quảng Nam, Quảng Trị), các đơn vị Quân giải phóng nổ súng tiến công nhiều mục tiêu, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều vùng nông thôn. Sau những ngày đầu tiến công và nổi dậy giành thắng lợi, Quân giải phóng ở cả 2 hướng chuyển sang đánh lực lượng phản kích. Ở cánh Bắc, do Quân giải phóng không chiếm được đồn Mang Cá và sân bay Tây Lộc, không chia cắt và ngăn chặn được hướng Bao Vinh nên quân Mỹ và quân Sài Gòn có điều kiện tăng cường lực lượng vào Mang Cá và khu vực sân bay Tây Lộc, dựa vào đó để phản kích vào khu vực Thành Nội và nhiều nơi khác. Ở cánh Nam, quân Mỹ và quân Sài Gòn chiếm lại nhiều mục tiêu. Từ ngày 5.2, Quân giải phóng phải rút khỏi nội thành ra bám trụ vùng ven. Từ ngày 7.2, 14 tiểu đoàn quân Mỹ và quân Sài Gòn với sự chi viện hoả lực mạnh mẽ của không quân, pháo binh, xe tăng, mở các cuộc phản kích nhằm vào các mục tiêu phía Bắc thành phố Huế. Tiếp đó, nhiều đơn vị chủ lực đối phương được tung vào trận, nâng tổng số quân Mỹ và quân Sài Gòn tại Mặt trận Huế lên 23 tiểu đoàn (trong đó có 15 tiểu đoàn Mỹ). Ngoài ra, sư đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ chiếm đóng ở phía bắc và tây bắc Huế nhằm ngăn chặn sự tăng viện của Quân giải phóng. Không quân Mỹ dội bom vào các mục tiêu Quân giải phóng chiếm giữ, tàn phá nhiều nhà cửa và công trình kiến trúc của cố đô Huế. Để phối hợp với toàn Miền, lực lượng Quân giải phóng được tăng cường vào khu vực Thành Nội, kiên quyết giữ vững những mục tiêu đang chiếm giữ. Vùng ven, Quân giải phóng mở những cuộc tiến công vào Nam Giao, Long Thọ, Tam Thai, cầu Bến Ngự, cầu Lò Rèn, Đập Đá, Vĩ Dạ, An Cự... nhằm buộc quân phản kích phải phân tán lực lượng đối phó, hỗ trợ cho lực lượng chiến đấu trong nội thành. Từ ngày 9.2, giao tranh diễn ra tại nhiều nơi trong thành phố Huế. Ngày 21.2, sau nhiều lần phản kích, đối phương dồn quân cách mạng về phía An Hoà. Ở khu vực Thành Nội, quân phản kích chiếm thêm cửa Thượng Tứ, dồn Quân giải phóng về khu vực phía Tây Thành. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, tránh bị bao vây, ngày 22.2, Khu uỷ Trị - Thiên và chỉ huy Mặt trận Huế quyết định rút lực lượng chiến đấu ra khỏi thành phố Huế. Từ ngày 23.2 đến 25.2, các đơn vị chủ lực, đặc công, biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích, thương bệnh binh đã chủ động, bí mật lần lượt rút lên vùng giải phóng Phú Vang và vùng căn cứ miền núi Trị - Thiên.
Trải qua 25 ngày đêm chiến đấu, Quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20.000 quân đối phương, bắn cháy và phá huỷ 50 máy bay, hàng trăm  xe QS, thu và phá huỷ 2.500 súng, pháo các loại cùng nhiều kho tàng, phương tiện QS khác; đập tan phần lớn bộ máy chính quyền Sài Gòn ở thành phố, ở các huyện, xã, thôn, giải phóng hàng ngàn tù chính trị, hàng trăm nghìn dân, thành lập chính quyền cách mạng ở thành phố và nhiều nơi. Cuộc tiến công và nổi dậy ở Huế đã phối hợp có hiệu quả với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy toàn Miền, góp phần quan trọng gây chấn động mạnh, đánh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Ưu điểm của cuộc tiến công và nổi dậy là: có cả một quá trình chủ động chuẩn bị lực lượng, thế trận; nêu cao tinh thần tự lực tự cường, khắc phục khó khăn; vận dụng cách đánh táo bạo, phối hợp khá nhịp nhàng giữa tiến công quân sự và nổi dậy của nhân dân nên phát huy được sức mạnh to lớn. Những khuyết điểm còn tồn tại là: chưa chủ động xây dựng miền núi và vùng giáp ranh thành chiến trường cho tác chiến của chủ lực; thiếu kế hoạch đối phó với tình huống khi không chiếm được mục tiêu chủ yếu và bị phản kích dữ dội; thiếu năng động, quyết đoán chuyển phương châm đấu tranh khi không đạt được mục tiêu cao nhất đề ra; khi bị phản kích, không tập trung lực lượng diệt từng mục tiêu, bộ phận đối phương, nhất là các vị trí có ý nghĩa quyết định (đồn Mang Cá, ngã ba Sịa... ); kế hoạch rút lui và chính sách ở vùng mới giải phóng thiếu toàn diện, tạo điều kiện cho đối phương dễ đánh phá và chiếm lại những vùng vừa bị mất. Bài học được rút ra là: phải chuẩn bị thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh; vận dụng cách đánh thích hợp sáng tạo, bí mật, bất ngờ; kết hợp sức mạnh tổng hợp quân sự - chính trị nhưng phải lấy tiến công quân sự làm đòn chính; phải chuẩn bị lực lượng vũ trang mạnh, tổ chức chiến trường tác chiến chủ lực; cơ quan lãnh đạo và người chỉ huy chiến trường vừa phải có tinh thần triệt để chấp hành mệnh lệnh nhưng phải có tinh thần chủ động tự chịu trách nhiệm đề ra phương án mới khi tình hình thay đổi.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!