Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014

CẤU TRÚC PHƯƠNG PHÁP LUẬN SỬ HỌC



Hoạt động nghiên cứu khoa học là một dạng của hoạt động nhận thức. Trong hoạt động này, chủ thể nhận thức là nhà khoa học, đối tượng nhận thức là đối tượng của khoa học, kết quả nhận thức là những tri thức khoa học. Quá trình nhận thức trong hoạt động khoa học là quá trình nghiên cứu và kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu được thể hiện thông qua một công trình.
Cấu trúc phương pháp luận khoa học nhìn chung được hình dung như sau:

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2014

CÁC HÀM NGHĨA CỦA KHÁI NIỆM “LỊCH SỬ”



Thứ nhất, trên phương diện bản thể luận, “lịch sử” là quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội. Lịch sử xã hội loài người là quá trình hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích nhất định. Những sự kiện lịch sử với những hình thức tồn tại cụ thể là đối tượng nhận thức của người nghiên cứu, tồn tại độc lập, khách quan ngoài ý thức của người nghiên cứu.
Thứ hai, trên phương diện nhận thức luận, “lịch sử” là sự hiểu biết, là tri thức của con người về những gì đã diễn ra trong quá khứ. Không phải mọi tri thức về quá khứ đều là tri thức khoa học. Tri thức lịch sử thực sự trở thành tri thức khoa học khi hoạt động nhận thức quá khứ là hoạt động khoa học.

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2014

VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI TRÊN BỘ GIỮA VIỆT NAM – TRUNG QUỐC NHỮNG NĂM 1975-1979



Mai Hoa tổng hợp
Trong quan hệ giữa nhiều quốc gia, vấn đề biên giới là một trong những vấn đề vô cùng nhạy cảm. Đối với mọi quốc gia, việc xác định đường biên giới là một việc cần thiết và quan trọng, bởi biên giới là một sáng tạo pháp lý để xác định chủ quyền. Biên giới, chủ quyền lãnh thổ là vô cùng thiêng liêng và bất khả xâm phạm (inviolabilite).
Với Trung Quốc, Việt Nam có đường biên giới đất liền dài khoảng 1.406 km, từ ngã ba biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Lào đến bờ biển vịnh Bắc Bộ (Quảng Ninh - Vân Nam), đi qua 7 tỉnh biên giới phía Việt Nam, tiếp giáp với hai tỉnh phía Trung Quốc[1]. Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là đường biên giới thực tế lịch sử, đến cuối thế kỷ XIX đã trở thành đường biên giới pháp lý (được luật pháp quốc tế thừa nhận).

Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

VỀ VIỆC TRUNG QUỐC CHIẾM MỘT PHẦN QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM



Mai Hoa tổng hợp
Tháng 01 năm 1988, CHND Trung Hoa đã huy động một lực lượng hải quân gồm nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa xuất phát từ Hải Nam tiến xuống phía Nam, trong đó có 4 chiếc đến khu vực phía Tây Bắc quần đảo Hoàng Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động các tàu vận tải của Việt Nam trong khu vực biển gần bãi đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên[1], xâm chiếm tại bãi đá Chữ Thập[2] và Châu Viên, xây nhà, cắm cờ Trung Quốc trên hai đảo này, làm bàn đạp để mở rộng các hành động lấn chiếm trên quần đảo. Lực lượng tàu chiến này đặt dưới sự chỉ huy của một Bộ Tư lệnh đặc biệt được thành lập để tổ chức triển khai chiến dịch đánh chiếm một phần quần đảo Trường Sa.

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

VỀ MỘT SỐ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG THỜI CHỐNG PHÁP: Chiến khu Láng Le



Chiến khu Láng Le - Bàu Cò: Gọi là chiến khu Láng Le vì đây là một vùng đầm lầy có nhiều chim lele tụ tập. Láng Le - Bàu Cò nằm trên bờ rạch Láng Le và rạch Cái Tăm cách Sài Gòn khoảng 20km về phía Tây Nam, giáp ranh xã Tân Nhựt và khu kinh tế mới Lê Minh Xuân chạy đến Gò Xoài, Vườn Thơm. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đây là vùng căn cứ cách mạng nổi tiếng, nhân dân ở đây sớm có truyền thống đấu tranh yêu nước nồng nàn.

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

Khái niệm QUÂN KHU 6



QUÂN KHU 6, tổ chức hành chính QS theo vùng lãnh thổ, QK6 có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh ở cực Nam Trung Bộ trong KCCP và KCCM. Thành lập 1961, trên cơ sở các tỉnh thuộc Nam Liên khu 5 với tên gọi T6, do BTL Miền (B2) trực tiếp chỉ đạo, gồm 7 tỉnh: Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Đắc Lắc và Quảng Đức (tỉnh do chính quyền Sài Gòn thành lập 1959, gồm 3 huyện của Đắk Nông ngày nay). Địa bàn QK6 thay đổi nhiều: cuối 1961, tách Lâm Đồng, Quảng Đức để cùng Phước Long (tách từ Quân khu 7) thành lập Khu 10 (còn gọi là Quân khu 10 hay T10), do BTL Miền (B2) trực tiếp chỉ đạo. 10.1963, QK6 có thêm các tỉnh Khu 10 (do Khu 10 giải thể) và tách các tỉnh Khánh Hoà, Đắc Lắc về Quân khu 5.

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Khái niệm QUÂN KHU 5



QUÂN KHU 5, tổ chức hành chính QS theo vùng lãnh thổ, QK5 có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh ở miền Trung, miền Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Thành lập 1.1949 (hợp nhất Chiến khu 5, Chiến khu 6 và Phân khu 15) thành Liên khu 5. Ngày truyền thống 16.10.1945. Từ 1945-1960, địa bàn QK5 được tổ chức thành Chiến khu 5 (Khu 5) gồm các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, các vùng phía Đông tỉnh Kon Tum, Gia Lai; Chiến khu 6 (Khu 6) gồm các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng và Phân khu 15 gồm các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, các vùng phía Tây tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. 27.7.1961,

Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG LẦN THỨ 21 VÀ ĐƯỜNG LỐI HOÀN THÀNH SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG MIỀN NAM



Tháng 6 - 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã họp Hội nghị lần thứ 21* (đợt 1) và tháng 10-1973 (họp đợt 2), ra Nghị quyết về "Thắng lợi vĩ đại cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới". Trung ương Đảng nhất trí với nhận định của Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6 - 1973 đã được Bộ Chính trị thông qua, về hai khả năng: Hoặc do đấu tranh tích cực của ta trên ba mặt chính trị, quân sự, ngoại giao mà ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam, hoà bình được lập lại, hoặc ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Trung ương khẳng định: "Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công".

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

TIẾN CÔNG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH XUÂN MẬU THÂN 1968 (31.1 - 28.2.1968),


TIẾN CÔNG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH XUÂN MẬU THÂN 1968 (31.1 - 28.2.1968), tiến công chiến lược của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam vào Sài Gòn - Gia Định, trọng điểm tiến công chủ yếu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968).
        Sài Gòn là thành phố lớn nhất miền Nam, thủ đô của Việt Nam cộng hoà, được phòng thủ vững chắc. Đến cuối năm 1967, ở vòng ngoài, trên hướng Tây Bắc, ngoài căn cứ Đồng Dù với sư đoàn 25 và 2 lữ đoàn quân Mỹ cùng với sư đoàn bộ binh 25 quân đội Sài Gòn, nhiều tiểu đoàn biệt động quân và các đại đội bảo an; hướng Bắc có căn cứ Lai Khê của sư đoàn 1 bộ binh Mỹ cùng sư đoàn 5 quân đội Sài Gòn và hàng chục tiểu đoàn biệt động quân, khi cần thiết, hướng này còn được lực lượng của trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ ở Bàu Trai, Bến Cát hỗ trợ;

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NGUYÊN NHÂN CHIẾN TRANH VIỆT NAM


PGS, TS. Hồ Khang
Viện lịch sử quân sự Việt Nam
Thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam đã buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương; công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân về nước. Đây là một cột mốc quan trọng trên con đường giải phóng dân tộc của toàn quân, toàn dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mở ra một thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam.